Trang chủ / Công trình nghiên cứu / Một số vấn đề từ tính của các điện tử linh động trong một số hợp chất liên kim đất hiếm-kim loại chuyển tiếp

Một số vấn đề từ tính của các điện tử linh động trong một số hợp chất liên kim đất hiếm-kim loại chuyển tiếp

06/12/2017

Báo cáo trình bày một số kết quả nghiên cứu về các tính chất sắt từ của các điện tử linh động trong một số hợp chất liên kim đất hiếm 4f với các kim loại chuyển tiếp 3d.

On magnetic properties of itinerant electrons in some rare earth - transition metal intermetallics

Nguyễn Minh Hồng Viện Cơ khí năng lượng và mỏ, Bộ Công-Thương 565, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội; Email: hongmnguyen@yahoo.com

Tóm tắt

    Từ các nghiên cứu dị hướng từ của phân mạng Fe-Co trong các hợp chất liên kim 4f-3d đã kết luận về bản chất địa phương của từ tính các điện tử 3d linh động. Các nghiên cứu tính chất từ, điện trở và giãn nở nhiệt của các hợp chất liên kim ba nguyên Cen+1Co3n+5B2n đã chứng tỏ sự tồn tại của từ tính các điện tử linh động 4f gây nên một số hiện tượng vật lý dị thường trong các hợp chất này.

Abstract

    A number of new research achievements on ferromagnetism of itinerant electron systems in some rare earth- transition metal (RE-TM) intermetallics are presented. From the studies of magnetic anisotropies of the Fe-Co sub- lattices in various pseudobinary and ternary with boron RE-TM intermatallics, conclusions on local characteristics of 3d itinerant electronic properties have been derived. In ternary intermetallics under a general formula Cen+1Co3n+5B2n with n = 1, 2, 3 and #, a number of pecu- liarities have been observed from the magnetic, transport and thermal expansion properties measured at ambient and high pressures. These observations could be understood by a presumption of existence of itinerant character- istics of 4f electrons due to short Ce-Ce atomic distances in these particular compounds.

1. MỞ ĐẦU

    Khoảng thời gian hơn 1/3 thế kỷ vừa qua là giai đoạn phát triển vượt bậc của lĩnh vực Từ học và Vật liệu từ. Riêng trong lĩnh vực vật liệu từ cứng, khởi đầu là việc phát hiện dị hướng từ cao trong hợp chất liên kim YCo5 và việc chế tạo ra nam châm vĩnh cửu SmCo5 vào năm 70 của thế kỷ trước, rồi tiếp đó Nd2Fe14B được phát hiện vào năm 1984, đã đưa năng lượng từ tăng từ khoảng 80 kJ/m3 (các hợp kim AlNiCo đặc biệt) lên đến trên 400 kJ/m3 (các nam châm Nd-Fe-B), với tốc độ trung bình cứ 15 năm tích năng lượng tăng gấp đôi. Vào những năm đầu thế kỷ 21, hy vọng đạt tới tích năng lượng lý thuyết 800 kJ/m3 (100 MGOe) được đặt vào các cấu trúc vật liệu nhân tạo nanôcompozit Nd2Fe14B/á-Fe, song các nỗ lực tốt nhất đạt được vẫn mới chỉ dừng lại ở mức trên dưới 400 kJ/m3 [1], không cao hơn nam châm Nd-Fe-B đa pha với công thức danh định Nd15Fe77B8.

    Vật liệu từ cứng được đặc trưng bởi cảm ứng từ dư lớn, lực kháng từ cao (tức là sẽ có tích năng lượng (BH)max cao) và nhiệt độ Curie đủ cao để không bị mất tính chất nam châm tại nhiệt độ sử dụng. ứng với các đòi hỏi đó là các tính chất nội tại quan trọng nhất xác định khả năng ứng dụng của vật liệu: từ độ cao, dị hướng từ lớn và nhiệt độ Curie cao.

    Vì thế phát triển cùng với các phát hiện vật liệu kỹ thuật là sự bùng nổ các nghiên cứu định hướng cơ bản nhằm tìm kiếm các quy luật cải thiện các tính chất ứng dụng và nhằm giải thích bản chất tác tương tác từ trong các hợp chất liên kim loại đất hiếm-kim loại chuyển tiếp (RE-TM), xem tổng quan quan trong [2].

    Trong một gần đúng mô hình trường phân tử, từ tính của các hợp chất đất hiếm-kim loại chuyển tiếp được xét bao gồm hai phân mạng: phân mạng đất hiếm được xác định bởi các điện tử định xứ 4f và phân mạng kim loại chuyển tiếp bởi các điện tử 3d linh động. Ngoài ra, tương tác trao đổi giữa hai phân mạng đóng vai trò không kém phần quan trọng vào từ tính của hợp chất liên kim loại RE-TM.

    Về mặt lý thuyết, mô hình điện tử định xứ áp dụng cho các điện tử 4f coi các điện tử từ hoàn toàn định xứ quanh hạt nhân và trạng thái của chúng gần với trạng thái điện tử trong nguyên tử hoặc iôn tự do. Kim loại đất hiếm có liên kết spin- quỹ đạo rất lớn ( 104 K), vì thế số lượng tử toàn phần J là số lượng tử tốt và mômen từ nguyên tử sẽ là m = -gJ.ìB.J, trong đó thừa số Landé gJ = 1 + [J(J+1) + S(S+1) - L(L+1)]/[2J(J+1)].

    Tương tác trao đổi giữa các spin 4f - 4f là gián tiếp thông qua điện tử dẫn, nó có giá trị dương và có cường độ yếu (tương tác RKKY), nên các hợp chất trong đó chỉ có các iôn đất hiếm từ tính đều có nhiệt độ Curie thấp. Tuy nhiên, do tác dụng của trường tinh thể 102 K, dị hướng từ của phân mạng đất hiếm rất lớn.

    Mô hình điện tử linh động, hoặc mẫu vùng năng lượng, áp dụng cho các điện tử 3d coi các điện tử từ là các điện tử dẫn hoàn toàn tự do. Trật tự sắt từ sẽ xảy ra khi mật độ trạng thái điện tử tại mức Fermi NF và cường độ tương tác trao đổi I giữa các spin 3d đủ lớn: N(EF).I > 1 (chỉ tiêu Stoner), dẫn đến sự tách vùng năng lượng 3d thành các bán vùng với các spin và spin . Mômen từ “nguyên tử” tỷ lệ với độ chênh lệch số spin trong hai bán vùng trên: m = μB.(N – N), vì thế không phải là số nguyên. Tương tác trao đổi 3d-3d là trực tiếp nên cường đội lớn, dẫn đến nhiệt độ Curie các hợp chất Fe, Co nói chung cao. Tuy nhiên, so với từ tính phân mạng đất hiếm, dị hướng từ của phân mạng 3d tương đối khiêm tốn. Điều này là do vai trò lấn át của trường tinh thể (~ 104 K) làm dập tắt các quỹ đạo 3d (năng lượng tương tác spin - quỹ đạo <102 K).

    Tương tác trao đổi giữa hai phân mạng RE và TM là âm thông qua sự lai hóa (hybridation) các trạng thái điện tử 5d (RE) và 3d (TM) và do liên kết nội nguyên tử 5d-4f (RE) là dương, nên các spin 3d và 4f sắp xếp đối song song (tương tác phản sắt từ). Do vậy các mômen từ phân mạng RE và TM sắp xếp song song trong các hợp chất đất hiếm nhẹ (đứng trước Gd trong dãy các nguyên tố đất hiếm) và đối song song trong hợp chất với các đất hiếm nặng (từ Gd trong dãy các nguyên tố đất hiếm). Tương tác giữa hai phân mạng 4f-3d có vai trò đặc biệt: nó góp phần duy trì sự tồn tại mômen từ cao và dị hướng từ lớn của phân mạng đất hiếm tại nhiệt độ đủ cao cho các ứng dụng vật liệu. Vì thế các nam châm vĩnh cửu hiện đại hoặc là họ SmCo5 hoặc Nd-Fe-B như đã nêu là do các hợp chất này kết hợp được tối ưu các yếu tố nhiệt độ Curie cao, từ độ lớn và dị hướng từ lớn do đóng góp của cả hai phân mạng từ.

    Báo cáo này trình bày những hiểu biết mới về từ tính các điện tử linh động 3d thể hiện qua tính chất dị hướng từ trong phân mạng Fe-Co của các hợp chất trên và từ tính đặc biệt của các điện tử 4f trong các hợp chất liên kim Cen+1(Fe,Co)3n+5B2n đó.

2. TỪ TÍNH CỦA PHÂN MẠNG Fe-Co TRONG CÁC HỢP CHẤT RE-(Fe,Co)

    Một đặc điểm là các hệ hợp chất RE-TM với các thành phần hợp thức khác nhau có cấu trúc tinh thể khác nhau. Và trong mỗi loại cấu trúc có tồn tại các vị trí tinh thể với cấu hình các nguyên tử xung quanh khác nhau cho các nguyên tử 3d và 4f.

    Các kết quả thực nghiệm cho thấy khi thay thế Fe cho Co (hoặc ngược lại) trong các hợp chất RE- (Fe,Co) từ độ tăng lên qua một cực đại rồi giảm. Đường cong như vậy tương tự như trường hợp các hợp kim 3d và được gọi là đường cong Slatter- Pauling và giải thích được bằng mô hình vùng cứng (rigid band) [3]. Xét đến vai trò của các điện tử s-p, Malozemof, Williams và cộng sự vào năm 1983 đã đưa ra khái niệm hóa trị từ Zm = 2Nd – Z, trong đó hóa trị Z = N + N với N = Nd + Nsp và N = Nd + Nsp và đã giải thích tốt sự phụ thuộc nồng độ của từ độ trong các hợp chất liên kim [4]. Điều này chứng tỏ bản chất vùng của từ tính phân mạng 3d.

    Tuy nhiên, các nghiên cứu dị hướng từ trên hệ hợp chất Y2(Fe, Co)17, trong đó iôn Y không có mômen từ, cho thấy khi thay Fe cho Co, dị hướng từ biến đổi phi tuyến, không giải thích được nếu chỉ xét 1 phân mạng 3d như trên.

    Có một thực tế là các nghiên cứu nhiễu xạ nơtron phát hiện thấy sự thay thế Fe cho Co không xẩy ra một cách thống kê mà có sự thế chỗ ưu tiên, điều này giải thích được xu hướng thay đổi dị hướng nếu coi các iôn Co và Fe ở cùng một vị trí tinh thể có các đóng góp ngược dấu vào dị hướng từ (phù hợp với hệ số Stevens- liên quan đến phân bố không gian của các quỹ đạo 3d- trong mô hình điện tử 3d định xứ, vì thế gọi là dị hướng đơn iôn). Trên cơ sở các ý tưởng sơ khai này của Streever vào năm 1979 [5], GS Nguyễn Phú Thùy [6] đã giải thích được định lượng bằng mô hình “dị hướng riêng chỗ” và rút ra được các thông số dị hướng riêng chỗ của các iôn Fe và Co trong Y2(Fe, Co)17 với các giả thiết: a) Dị hướng từ tổng cộng là tổng các đóng góp vào dị hướng từ của các iôn riêng biệt; b) Mỗi iôn Co hoặc Fe ở tại một vị trí tinh thể có những đóng góp khác nhau và 3) cùng một loại iôn nhưng ở các vị trí tinh thể khác nhau có các đóng góp khác nhau. Do đó sự phụ thuộc phi tuyến vào nồng độ thay thế của dị hướng là do sự thế chỗ ưu tiên vào các vị trí tinh thể khác nhau.

    Cùng với GS Thuỳ và một số các cộng sự, chúng tôi đã nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo trên hầu hết các hợp chất có thể của họ hợp chất Ym(Fe,Co)n và REm(Fe,Co)nBk với m:n = 1:3, 1:5, 2:17; m:n:k = 1:4:1, 2:14:1, RE = Y hoặc Lu và đã chứng minh tính hợp lý của mô hình “dị hướng riêng chỗ” [7]. Thí dụ trên hình 1 là kết quả thu được trên các hợp chất Y2(Fe,Co)14B.

HClienkim1

Hình 1. Năng lượng dị hướng từ Ea đo tại các nhiệt độ khác nhau trong các hợp chất liên kim Y2(Co1-xFex)14B, các đường liền nét là kết quả tính theo mô hình dị hướng riêng chỗ.

    Nhưng các kết quả này cũng nói lên rằng từ tính của các điện tử 3d trong hợp chất RE-TM cũng mang những yếu tố định xứ quy định bởi môi trường tinh thể xung quanh mỗi vị trí 3d trong tinh thể. Điều này chứng tỏ vai trò đáng kể của trường tinh thể lên các trạng thái điện tử 3d. Nói khác đi đóng góp của các quỹ đạo 3d vào mômen từ không bị dập tắt hoàn toàn. Các nghiên cứu tính toán cấu trúc vùng năng lượng về sau đã chứng minh rằng mặt Fermi của các trạng thái điện tử 3d tại các vị trí tinh thể khác nhau hoàn toàn khác nhau, và trong một mức độ nhất định, các vị trí có phần đóng góp lớn của mômen quỹ đạo tính toán được tương ứng với các vị trí có dị hướng 3d lớn đã được phân tích [8].

3. TỪ TÍNH CÁC ĐIỆN TỬ “LINH ĐỘNG” 4F TRONG CÁC HỢP CHẤT Cen+1Co3n+5B2n

    Từ học hiện đại có một mảng nghiên cứu lớn dành cho các hợp chất với các nguyên tố actinide: từ tính quỹ đạo của các vùng năng lượng 5f. Trong các hợp chất này, sự lai hóa của các trạng thái điện tử 5f-5f và 5f-ligand (với các trạng thái điện tử các iôn liên kết) là nguồn gốc của dị hướng từ khổng lồ. Cùng với dị hướng này là sự tồn tại nhiệt độ Curie tương đối cao do tương tác trao đổi trực tiếp 5f-5f trong các hợp chất của Uran với kim loại chuyển tiếp. Điều này cho phép nghĩ tới khả năng ứng dụng có thể của các hợp chất này.

    Từ tính quỹ đạo của các vùng năng lượng 4f cũng có thể tìm thấy trong các hợp chất Ce-TM trong đó khoảng cách nguyên tử Ce-Ce đủ nhỏ để xẩy ra sự chồng phủ các hàm sóng 4f. Điều này xẩy ra trong hệ hợp chất Cen+1Co3n+5B2n với n = 0, 1, 2, 3 và . Cấu trúc tinh thể của các hợp chất này đều liên quan trực tiếp đến cấu trúc hexagonal của CeCo5 (n = 0), xem hình 2. Khoảng cách nguyên tử Ce-Ce đặc biệt ngắn theo trục tinh thể c ( 4 A) so với trục a ( 5 A). Nguyên tử B trong các hợp chất với n 0 chỉ thế chỗ Co ở các vị trí 2c. Điều này dẫn đến sự rút ngắn khoảng cách nguyên tử Ce-Ce dọc theo trục c, trong khi khoảng cách dọc theo trục a thực tế không đổi. Với CeCo3B2 (n = ), khoảng cách nguyên tử Ce-Ce rút ngắn chỉ còn 3 A.

Hình 2

Hình 2. Cấu trúc tinh thể các hợp chất Rn+1Co3n+5B2n với n = 0, 1, 2, 3 và ∞, trích từ [9]

    Như vậy, với sự thay thế nguyên tử Co bằng B, tức là dịch chuyển từ CeCo5 (n = 0) qua CeCo4B (n = 1), Ce3Co11B4 (n = 2), Ce2Co7B3 (n = 3) tới CeCo3B2 (n = ), chúng ta không chỉ thay đổi từ tính phân mạng Co (trước hết là do giảm số nguyên tử Co trong từng ô mạng), mà còn làm biến đổi có hệ thống sự lai hóa 4f-4f và 4f-ligand và các tính chất liên quan của vật liệu. Mặc dù các nghiên cứu chúng tôi tiến hành chủ yếu chỉ trên các mẫu đa tinh thể ứng với n = 1, 2, 3 và , một loạt các hiện tượng vật lý, không giải thích được nếu công nhận chỉ các trạng thái điện tử 3d có đóng góp vào từ tính, đã được phát hiện [10].

    CeCo5 là chất sắt từ có dị hướng từ lớn và nhiệt độ Curie cao. Do vai trò của tương tác trao đổi trực tiếp 3d-3d lớn và dị hướng từ tương đối cao của phân mạng Co (trong YCo5) mà vai trò của từ tính quỹ đạo 4f của Ce trong dị hướng từ khó phân biệt trong các nghiên cứu trước đây. Khi đo trên các mẫu đơn tinh thể Bartashevich và cộng sự nhận thấy dị hướng từ của CeCo5 có giá trị lớn hơn YCo5 tới 35% [11], cho thấy Ce có đóng góp rõ ràng vào dị hướng từ. Điều này phù hợp với các tính toán cấu trúc vùng năng lượng của CeCo5 trong đó chỉ ra có sự lai quan trọng giữa các trạng thái Co 3d và Ce 4f dẫn tới sự hình thành mômen từ cảm ứng bao gồm cả đóng góp spin và quỹ đạo tại các vị trí Ce và từ tính Ce mang bản chất các điện tử 4f linh động [12].

    CeCo4B và Ce3Co11B4 có trật tự sắt từ ở các nhiệt độ nhỏ hơn 280 K và 270 K. Các phép đo từ chúng tôi thực hiện cho thấy sự tồn tại dị hướng từ lớn ở cả trạng thái sắt từ và trạng thái thuận từ. Chẳng hạn trong CeCo4B trường dị hướng Ha tại 4.2 K khoảng 20T, trong khi trường dị hướng chỉ do phân mạng Co (đo được trong YCo4B) chỉ là Ha = 1,5 T. Điều này chứng tỏ vai trò của các trạng thái quỹ đạo 4f trong từ tính hai hợp chất này, mà cụ thể là tồn tại dị hướng trao đổi do các trạng thái lai 4f-4f và 4f-3d khác nhau theo các phương tinh thể khác nhau.

    Trong CeCo4B chúng tôi cũng quan sát thấy một chuyển pha đẳng cấu trúc ở vùng nhiệt độ 120 K khi tiến hành đo điện trở và giãn nở nhiệt. Chuyển pha này chỉ liên quan đến hằng số mạng a của tinh thể: dưới 120 K, hằng số mạng a đột ngột giảm, trong khi hằng số mạng c biến đổi bình thường. Các phép đo nhiệt dung và độ nén (com- pressibility) tiến hành tiếp theo cho phép chúng tôi khẳng định hiện tượng “lattice softening” (sự mềm hóa mạng tinh thể) trong vật liệu này ở dưới nhiệt độ chuyển pha 120 K [13]. Chuyển pha này được giả thiết liên quan trực tiếp đến sự gia tăng quá trình lai hóa các trạng thái điện tử, mà trước hết là 4f -3d (Co) và 4f-sp (B) khi giảm nhiệt độ, và vì thế nó phải phụ thuộc mạnh vào áp suất như thực nghiệm của chúng tôi đã quan sát được, xem hình 3. Trong các nghiên cứu gần đây, đặc biệt các tính toán cấu trúc vùng năng lượng cho thấy có sự xuất hiện trật tự các mômen từ cảm ứng tại các vị trí Ce, và tạo nên phân mạng đối song song (ferri từ) với mômen từ phân mạng Co trong vùng nhiệt độ thấp [14] .

Hình 3

Hình 3. Sự phụ thuộc mạnh vào áp suất của chuyển pha tại 120 K thể hiện trên kết quả đo hệ số dãn nở nhiệt dL/Lo của mẫu đa tinh thể CeCo4B.

    Trong Ce2Co7B3 chúng tôi phát hiện thấy trong suốt dải nhiệt độ dưới nhiệt độ Curie TC = 250 K, đường cong từ hóa có dạng chuyển pha cảm ứng bởi từ trường (field induced transition). Khi tăng nhiệt độ, chuyển pha này chuyển từ chuyển pha loại một (có bước nhảy từ độ) sang loại hai ở nhiệt độ khoảng 150 K, xem hình 4.

    Bản chất của hiện tượng này có thể do tồn tại trật tự phản sắt từ hoặc do quá trình từ giả bền do phân mạng Co gây ra. Khi nghiên cứu phổ 59Co NMR trên hợp chất này, F. Maruyama et al. [15] phát hiện thấy mômen từ của Co tại vị trí tinh thể 6i1 rất lớn hơn mômen từ tổng cộng. Đây là bằng chứng về tồn tại trật tự phản sắt từ. Các nghiên cứu hiệu ứng Kerr quang từ trên hệ hợp chất Ce(Fe1- xCox)2 gần đây tại ĐH Iowa khẳng định sự tồn tại trạng thái điện tử 4f linh động và điều này giải thích được các chuyển pha cảm ứng từ trường là do cấu trúc phản sắt từ trong các hợp chất này (quá trình spin flip) [16]. Nghiên cứu này củng cố các kết luận của chúng tôi về từ tính các điện tử 4f trong hệ Ce- Co-B và gợi ý rằng chuyển pha cảm ứng từ trường trong Ce2Co7B3 cũng có thể do trật tự phản sắt từ giữa phân mạng 3d và 4f (từ tính các điện tử linh động 4f).

    Như trên đã viết, với CeCo3B2 (n= ), khoảng cách nguyên tử Ce-Ce dọc theo trục c rút ngắn chỉ còn 3 A, trong khi khoảng cách trục a vẫn vào khoảng 5 A, dẫn đến việc tạo nên một chuỗi nguyên tử Ce một chiều (pseudo 1D chain). Các phép đo chúng tôi tiến hành trên một mẫu đơn tinh thể (nuôi tại PTN Từ học Louis Néel, Grenoble) cho thấy hợp chất này là sắt từ với TC = 140 K [17], xem hình 5. Vì rằng YCo3B2 và LuCo3B2 đều là các chất thuận từ Pauli và GdCo3B2 có trật tự sắt từ dưới 58 K, nhiệt độ Curie cao trong CeCo3B2 là do tương tác trao đổi trực tiếp của các điện tử 4f trong vùng năng lượng 4f. Hợp chất cũng có từ tính Ce-4f với nhiệt độ Curie cao tương tự là CeRh3B2, TC = 115 K. Tuy nhiên chất này có trục dễ từ hóa trong mặt phẳng (a,b), trong khi CeCo3B2 có dị hướng đơn trục (c là trục dễ từ hóa). Phát hiện thấy hiện tượng sắt từ trong CeCo3B2 cũng được thông báo bởi Long Pham và các cộng sự năm 2006 khi nghiên cứu trên các mẫu đơn tinh thể [18], tuy nhiên các tính toán cấu trúc vùng năng lượng bởi Ito và Ido chưa khẳng định được điều này [14].

Hình 4-5

Hình 4 - 5

4. KẾT LUẬN

    Các hợp chất liên kim đất hiếm-kim loại chuyển tiếp đóng vai trò quan trọng trong các ứng dụng công nghệ điện từ và góp phần vào cuộc cách mạng công nghệ điện tử-tin học đã và đang diễn ra. Các tính chất vật lý đa dạng của các hợp chất này đã góp phần hoàn thiện các hiểu biết về từ tính vật liệu. Đặc biệt các nghiên cứu thực nghiệm dị hướng từ phân mạng 3d cho thấy từ tính 3d tuân theo mẫu vùng năng lượng, nhưng không phải một mẫu vùng đơn giản cho tất cả các nguyên tử 3d. Dị hướng của mỗi nguyên tử 3d cần được xem xét trong tác động của các yếu tố môi trường tinh thể đặc trưng xung quanh, ứng với trạng thái điện tử tương ứng trong vùng năng lượng “địa phương” của mình.

    Các nghiên cứu trên các hợp chất Cen+1Co3n+5B2n với n = 1, 2, 3 và cho thấy một loạt các tính chất dị thường, cụ thể là dị hướng từ rất lớn trong CeCo4B và Ce3Co11B4, chuyển pha đẳng cấu trúc và hiện tượng mềm hoá mạng tinh thể (lattice softening) trong CeCo4B, hiện tượng chuyển pha cảm ứng bởi từ trường trong Ce2Co7B3 và tương tác sắt từ mạnh trong CeCo3B2 đều có thể giải thích được bằng sự tồn tại của từ tính các điện tử Ce 4f linh động do sự chồng phủ của các trạng thái điện tử 4f, và sự lai hóa mạnh của các trạng thái 4f với các trạng thái 3d của Co và với s, p của B. Tuy nhiên cần các nghiên cứu tiếp theo trên các đơn tinh thể hợp chất liên kim CeCo3B2 để xác định các tính chất điện tử của hợp chất đặt biệt này.

    Lời cảm ơn: Các nghiên cứu được tiến hành trong một thời gian dài tại các PTN trong và ngoài nước, với sự cộng tác đặc biệt quan trọng của GS Nguyễn Phú Thuỳ, PTN Vật lý nhiệt độ thấp, ĐHKH tự nhiên; GS J. J. M. Franse ở Amsterdam University; của các đồng nghiệp tại Institut fuer Experimental Physik, TU Vienna (CH áo); Laboratoire du Magnétism Louis Neél, Grenoble (Pháp); Institute for Solid State Physics, Czech Academy of Sciences (CH Czech) và Department of Applied Physics, Tohoku Gakuin University (Nhật bản).

[symple_box color="gray" text_align="left" width="100%" float="none"]

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

  1. Kết quả của S. Liu và các cộng sự năm 2004, xem http://www.udri.udayton.edu/NR/exeres/12BE8330-16AD- 4FF4-914A-0CBB9E334E7D.htm
  2. Xem Magnetism: Fundamentals, Materials and Applications, Edit. E. du T. de Lacheisserie, D. Gignoux, M. Schlenker, Kluwer Academic Publishers; 2002
  3. Jaccarino V., Walker L. R., Phys. Rev. Letters, 15, 1965, 209; trích lại trong O Handley R. C., Hara Y., Phys. Rev. B 35; 1987, 2576-2578
  4. Williams A., Moruzzi V., Malozemoff A., Terakura K.; IEEE Transactions on Magnetics, Volume 19, Issue 5, 1983, 1983-1988
  5. Streever R. L., Phys. Rev. B19, 1979, 2704
  6. Thuy N. P., Franse J. J. M., J. Mag. Mag. Mat., 54-57, 1986, 915
  7. Hong N. M., Franse J. J. M., Thuy N. P.; J. Less-Common Met. 155, 1989, 151-159; N. P. Thuy, N. M. Hong, T. D. Hien and J. J. M. Franse; Proc. 6th Intern. Symp. Magn. Anis. Coerc. In Rare Earth- Trans. Metal Alloys, Carnegie Mellon Univ., Pittsburgh, 25 Oct. 1990, Ed. S. G. Sankar (Carnegie Mellon University) Vol. II, p. 60-79
  8. Coehoorn R., J. Magn. Magn. Mat., 99, 1991, p. 55-70, và Nordstrửm L. et al J. Phys. Condens. Matter 4, 1992, 3261-3272
  9. Trích dẫn từ http://neel.cnrs.fr/spip.php?article1468
  10. Hong N. M., published in Trends in Materials Science and Technology, Proc. of 3rd Intern. Workshop on Materials Science (IWOMS ’99), Hanoi, Nov. 1999, Eds. F. F. Bekker, N. D. Chien, J. J. M. Franse et al. (Hanoi National University Publishing House, 1999), 365-366, và các công trình được trích dẫn trong bài này.
  11. Bartashevich, Goto T., Radwanski R. J., Korolyov A. V., J. Magn. Magn. Mat., 131,1994, 61-66
  12. Nordstrửm L., Eriksson O., Brooks M. S. S., Johansson B.; Phys. Rev. B (Condensed Matter), 41, 1990, 9111-9120
  13. Arnold Z., Hong N. M., Skorokhod Y., Machỏtova Z., Physica B, 327, 2003, 211-213
  14. Ito T., Ido H., J. Appl. Phys., 105, Issue 7, 2009, pP. 07E511-07E511-3
  15. Maruyama F., et al., Jpn. J. Appl. Phys., Vol. 37, 1998, 1825-28
  16. Lange R. J., et al., Phys. Rev. B, 62, 2000, 7084
  17. Hong N. M., Communications in Physics, 17, 2007, 241-245
  18. Long Pham, Sidorov V., Lashley J., Thompson J., Lee H., Fisk Z., Abstract: Z23.0001: Studies on single Crystal CeCo3B2, 2006, APS March Meeting, Monday - Friday, March 13-17, 2006, Baltimore, MD

[/symple_box][symple_clear_floats]