Phát triển công trình xanh là đảm bảo cho phát triển bền vững
PGS TS NGUYỄN ĐỨC KHIỂN 18/04/2019
PGS TS NGUYỄN ĐỨC KHIỂN
Nguyên Giám đốc Sở KHCNMT Hà Nội
Ngày 20/10/2018 tại Thủ đô Copenhagen của Đan Mạch, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự Hội nghị thượng đỉnh đối tác - tăng trưởng xanh và các mục tiêu toàn cầu đến năm 2030. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố “Việt Nam quyết tâm hướng đến tăng trưởng xanh”.
VẬY THẾ NÀO LÀ TĂNG TRƯỞNG XANH?
Theo tài liệu (Jerry Yudelson, The Green Building Revolution, Island Press, Washington- Covelo-London) ông Richard Fedrizzi, Chủ tịch Hội đồng Công trình xanh Hoa Kỳ (USGBC), năm 1999 đã viết: “Cuộc cách mạng Công trình xanh đang diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc. Nó đang làm biến đổi thị trường nhà đất, nhà ở và lối sống của cộng đồng. Nó là một phần của cuộc Cách mạng phát triển bền vững rộng lớn, có thể biến đổi mọi thứ chúng ta đã biết. Cuộc cách mạng này làm thay đổi môi trường xây dựng bẳng cách tạo ra hiệu quả sử dụng năng lượng, sức khỏe, các công trình hữu ích để giảm thiểu tác động đáng kể của công trình đối với cuộc sống đô thị, môi trường địa phương, khu vực và toàn cầu”. Thành phố xanh hay thành phố bền vững môi trường là thành phố được thiết kế và xây dựng trong điều kiện cân nhắc các tác động môi trường ở vị trí hàng đầu, không những chú ý đến cuộc sống thịnh vượng của dân cư đô thị, giảm thiểu nhu cầu tài nguyên đầu vào của thành phố (năng lượng, nước, vật liệu và thực phẩm), mà còn phải bảo đảm thành phố sản sinh ra chất thải ô nhiễm môi trường ít nhất; thành phố bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm không khí sạch, nước sạch, đất sạch và điều kiện sống tốt nhất cho dân cư đô thị.
Quan điểm chủ đạo và được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ X, lần thứ XI, trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, là “Phát triển mạnh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên giữ gìn đa dạng sinh học”. Đến năm 2012, Hà Nội có 4.113 nghìn phương tiện đi lại cá nhân trong đó có 368.325 ô tô và khoảng 3,8 triệu xe máy. Hà Nội chiếm 1/8 số lượng xe máy và 1/6 số lượng ô tô cả nước, chưa kể có khoảng 50 nghìn phương tiện giao thông vãng lai. Cùng với số lượng ô tô, xe máy “khổng lồ” trên, Hà Nội còn “sở hữu khoảng 1 triệu chiếc xe đạp, 300 chiếc xích lô, trên 1.000 xe buýt và khoảng 15 nghìn xe taxi (113 doanh nghiệp taxi). Tốc độ gia tăng phương tiện giao thông cá nhân của Hà Nội được tính là 15 %/năm. Tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông quá ít, chỉ chiếm 7-8 % đất xây dựng đô thị, trong khi đó mức yêu cầu hợp lý cho một đô thị hiện đại là (20 - 26) %. Với mật độ các loại phương tiện giao thông lớn, trong khi nhiều loại phương tiện giao thông có chất lượng kém vẫn đang được phép lưu hành, nên lượng khí thải ô nhiễm không khí từ giao thông vận tải đang có xu hướng gia tăng. Các hoạt động xây dựng hạ tầng kỹ thuật giao thông cũng là những nguồn gây ô nhiễm không khí đáng kể. Hoạt động của các máy móc thi công và xây dựng làm phát sinh tiếng ồn, bụi và các chất thải xây dựng.
Bên cạnh đó, việc chiếm dụng lòng đường, vỉa hè để xây dựng các công trình sẽ kéo theo nguy cơ ùn tắc giao thông. Điều này sẽ dẫn đến làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm không khí do khói bụi, hơi xăng dầu tại các vị trí ùn tắc. Đô thị là hạt nhân của một xã hội hiện đại, phát triển đô thị là quá trình gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nói chung và đất đai nói riêng, đồng thời gắn chặt với bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, trong các giải pháp quy hoạch tổ chức không gian, bố cục cơ cấu chức năng và xây dựng từng công trình thường chỉ hướng tới đô thị hiện đại mà quá ít đầu tư cho những đặc thù truyền thống của mỗi dân tộc. Về xây dựng chỉ quan tâm đến khu nhà ở mà chưa quan tâm đến khu vui chơi, trường học, dịch vụ, giao thông cho nên người dân chịu bao khổ cực không cần có, như báo Tiền Phong đã viết “khổ như chung cư cao cấp” nói về những khổ nhọc của người dân ở chung cư Keangnam - Hà Nội. Tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số đô thị lân cận do ảnh hưởng khách quan là biến đổi khí hậu, nhưng chủ quan là do việc quy hoạch và quản lý chưa tốt. Quy hoạch tuy đã được phê duyệt, nhưng còn hiện tượng chạy theo lợi ích nhóm, xây dựng các nhà cao tầng trong khu đất vàng làm tăng mật độ dân cư quá mức dẫn đến ách tắc giao thông đô thị thường xuyên. Việc ao hồ, kênh mương không được khơi thông, lại còn bị lấn chiếm do cống hóa hoặc lấp kín, dẫn đến phố xá luôn bị ngập, nhiều nơi phải đi đò trong phố khi mưa lớn. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức nặng nề, đó là: nông dân thu nhập còn thấp, mức sống chưa cao, sản xuất nông nghiệp còn quá manh mún, sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu, thiếu hệ thống và chiều sâu; phong cách kỷ luật lao động còn tùy tiện, chạy theo lợi nhuận trước mắt, ít quan tâm đến thương hiệu hàng hóa nông sản ổn định, đồng nhất, rõ ràng về xuất xứ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,…
Để xây dựng ngành thủy sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, phát triển nuôi trồng thủy sản cần tuân theo quy hoạch tập trung vào những sản phẩm có thế mạnh, có giá trị cao; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng vùng nuôi; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và chế biến, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Hình thành cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Tập trung rà soát và hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng trong cả nước và trong từng vùng, nhất là giao thông, thủy điện, thủy lợi, đảm bảo sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, chú trọng xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ… Phát triển nhanh các nguồn điện và hoàn chỉnh hệ thống lưới điện, đi đối với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng và bảo đảm cung cấp đủ điện cho nhu cầu phát triển. Hiện đại hóa thông tin – truyền thông và hạ tầng công nghiệp. Phát triển hệ thống cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh cho đô thị, khu công nghiệp và dân cư nông thôn. Giải quyết cơ bản vấn đề thoát nước và xử lí nước thải ở các đô thị. Phát triển hài hòa, bền vững các vùng, xây dựng đô thị nông thôn mới. Rà soát điều chỉnh bổ sung quy hoạch và có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển, phát huy lợi thế của từng vùng, tạo sự liên kết giữa các vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực tác động lan tỏa đến các vùng khác, đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nam, Tây Nguyên, Tây Bắc, và phía Tây các tỉnh Trung Bộ, một số địa bàn có lợi thế vượt trội, nhất là ven biển, để hình thành một số khu kinh tế làm đầu tàu phát triển. Việc thực hiện các định hướng phát triển phải gắn với các giải pháp về ứng phó với biếu đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng để đảm bảo phát triển bền vững.
Trong phát triển đô thị cần đổi mới cơ chế chính sách, nâng cao chất lượng và quản lý chặt chẽ quy hoạch phát triển đô thị. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường gồm một số thành phố lớn, nhiều thành phố vừa và nhỏ, liên kết và phân bổ hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển. Khi xây dựng nông thôn mới việc quy hoạch, phát triển nông thôn cần gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn những nét đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm. Phát triển toàn diện lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Hướng trọng tâm hoạt động khoa học và công nghệ vào phục vụ công nghiệp hóa-hiện đại hóa, phát triển theo chiều sâu, góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: nâng cao năng lực, đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ. Hiện nay nhiều thành phố ở nước ta đang muốn xây dựng thành phố thông minh. Vì mô hình thành phố thông minh có thể giúp cho các thành phố lớn giải quyết được không ít các tồn tại gây bức xúc xã hội hiện nay.
Vậy thế nào là thành phố thông minh? Trước hết muốn xây dựng thành phố thông minh thì phải có hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông sẵn sàng, gồm cả hạ tầng không dây. Đây là những điều kiện cần thiết, vì việc kết nối thông tin không chỉ giữa con người với con người, mà còn kết nối giữa con người với vạn vật như: giao thông thông minh, điện thông minh, và tòa nhà thông minh… Ví dụ, ứng dụng công nghệ để giúp giảm ùn tắc giao thông, quản lý lưu lượng xe lưu thông trên đường từ đó biết được số “điểm nóng” tắc đường, điều chỉnh đèn tín hiệu, phân luồng… thu phí thông minh tại các tuyến đường hay bị tắc vào giờ cao điểm. Có thể nếu đi vào giờ cao điểm thì phải trả phí cao hơn, còn sau giờ cao điểm có thể không thu phí, hoặc thu thấp hơn. Để làm được điều đó thì phải có hệ thống camera và hệ thống cảm biến tự trừ tiền qua thẻ tín dụng được lắp trên xe. Có thể áp dụng các modul có kết nối 3G hoặc 4G với xe máy, ô tô để giúp quản lý lưu lượng xe, phòng chống mất cắp, giải quyết trường hợp tai nạn. Cũng có thể gắn cảm biến vào lốp xe để cảnh báo số kilomet mà xe đã chạy, từ đó khuyến cáo chủ phương tiện thay lốp xe đúng định kỳ, tránh tai nạn do nổ lốp có thể xảy ra (theo kinh nghiệm của Nhật Bản). Thành phố thông minh cũng có thể ứng dụng công nghệ xây dựng hạ tầng thông minh cung cấp nước sạch, cung cấp điện, chiếu sáng đô thị, thu gom xử lý rác thải, chống thực phẩm bẩn, v.v.
Việc áp dụng công nghệ thông minh giúp cơ quan quản lý và người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc các sản phẩm. Các sản phẩm này muốn bán được ở các siêu thị phải tuân thủ theo quy trình. Người tiêu dùng chỉ cần có điện thoại thông minh hoặc tại siêu thị buộc có thiết bị scan sản phẩm, phần mềm hiển thị nguồn gốc của sản phẩm đó được nuôi trồng ở trang trại nào, vùng nào và có đảm bảo quy trình hay không?
Muốn vậy phải xây dựng công nghệ điện toán đám mây và triển khai đến tận trang trại, hộ nông dân, Về xử lý rác thải có thể chọn thùng thu gom rác thông minh, kết nối với trạm thông tin của Công ty thu gom rác qua mạng 3G, 4G. Thùng rác này có công nghệ nén rác tự động và phân loại rác, khi thùng đầy tự động báo về trung tâm, người điều hành nhận biết qua hệ thống và điều xe đến thu gom rác. Tiến bộ của công nghệ thông tin và viễn thông khiến cho việc liên lạc đại chúng dựa trên cơ sở từng cá nhân trở nên đơn giản để có thể thực hành dân chủ thực sự tại mọi cấp. Trong thế giới ảo, nhiều cộng đồng mới đã hình thành do dễ dàng trao đổi quan điểm và ý kiến giữa các thành viên của các cộng đồng. Một lĩnh vực tiến bộ công nghệ nữa là khoa học công nghệ sinh học. Sự tăng trưởng nhanh chóng của công nghệ sinh học kết hợp với công nghệ thông tin mang tới cho chúng ta một cuộc cách mạng về bản đồ gen, điều được các nhà khoa học cho rằng có thể dẫn tới việc chữa trị được những căn bệnh rất khó điều trị như HIV, ung thư và nhiều bệnh khác. Nhờ đó loài người sẽ có thể sống lâu hơn mà ít bị ốm.
Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ tin tưởng các dự án, chương trình hợp tác công tư tiềm năng tăng trưởng xanh sẽ nhanh chóng được triển khai, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu đến 2030. Thủ tướng nhấn mạnh là một trong số những quốc gia tham gia sáng lập Hội nghị P4G, Việt Nam đã chính thức công bố Hội nghị P4G quốc gia với sự đồng chủ trì của Bộ Kế hoạch-Đầu tư cùng đông đảo doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thủ tướng tin tưởng tại hội nghị lần này, doanh nghiệp sẽ đồng hành với chính phủ, thực hiện thành công mục tiêu vì sự phát triển bền vững. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết tháng 9/2018, Việt Nam đã tổ chức hội thảo quốc tế rác thải nhựa và cộng đồng ven biển: Thực trạng rác thải nhựa và sự cần thiết của sự phân loại rác tại nguồn nhằm tăng cường thực thi pháp luật, thúc đẩy giải pháp hiệu quả giảm ô nhiễm rác thải nhựa. Nhiều kiến nghị của các doanh nghiệp đã được chính phủ ghi nhận và triển khai cụ thể. Việt Nam đánh giá cao những nỗ lực của Hội nghị P4G, đặc biệt là chính phủ Đan Mạch trong thúc đẩy phát triển bền vững thông qua triển khai chiến lược tăng trưởng xanh, nhất là hỗ trợ tài chính các đối tác khởi nghiệp với hai dự án được thực hiện ở Việt Nam là đối tác tài chính hỗn hợp cho nước và giữ ấm thị trường vật liệu thứ cấp của Việt Nam. Thủ tướng bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ hợp tác hiệu quả trong cách lập dự án hợp tác công tư tiềm năng trong tăng trưởng xanh, hỗ trợ Hội nghị P4G quốc gia Việt Nam trong việc gắn kết, điều phối và thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động đóng góp hợp tác tại Việt Nam trong thời gian tới “Việt Nam khẳng định chung tay hành động cùng với các chính phủ thành viên của hội nghị hiện thực hóa mục tiêu xanh toàn cầu đến năm 2030”, Thủ tướng nhấn mạnh đồng thời khẳng định Việt Nam sẵn sàng đẩy mạnh hợp tác thực hiện các sáng kiến của hội nghị, thúc đẩy các dự án hợp tác công tư TPP trong tăng trưởng xanh, đặc biệt là tiết kiệm năng lượng tái tạo tài nguyên nước, phát triển đô thị thông minh…
Tại hội nghị các nhà lãnh đạo nhấn mạnh yêu cầu ứng phó biến đổi khí hậu, và tình trạng nước biển dâng, cho rằng đây là những mục tiêu mang ý nghĩa sống còn và là “những thách thức cấp thiết” đối với nhiều quốc gia hiện nay. Các nhà lãnh đạo cho rằng để đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững cho thế hệ tiếp theo thì các quốc gia cần chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau vượt qua thách thức của biến đổi khí hậu. Cần có sự chung tay nỗ lực của thế giới vì không có chính phủ hay một quốc gia nào có thể ứng phó biến đổi khí hậu một cách riêng lẻ”. Các nhà lãnh đạo cũng cam kết giảm sử dụng các nhiên liệu thô tới năm 2030. Để đạt được những mục tiêu này không chỉ giới hạn trong hợp tác giữa các chính phủ mà còn phải mở rộng cho các cộng đồng, tổ chức xã hội, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp tư nhân.